phụng vụ

Kinh cầu nguyện cho các bà mẹ đang mang thai

Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, Cha đã dọn cho thân xác và linh hồn Đức Trinh Nữ Maria nên xứng đáng được cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu thế, và đã ban cho Thánh Gioan Tiền Hô được nên thanh sạch ngay khi còn ở trong lòng mẹ.


Chúng con nguyện xin Cha, ban cho chúng con được bằng an trong lúc mang thai và trong khi sinh nở. Xin Cha thương che chở đứa trẻ trong cánh tay yêu thương của Cha. Xin Cha ban cho chúng con được ơn biết nuôi dưỡng và giáo dục con cái của chúng con theo thánh ý Cha.

 Lạy Mẹ Maria nhân hiền, khi xưa Mẹ vừa cất tiếng chào bà Isave thì Thánh Gioan đang còn trong lòng mẹ đã nhảy mừng, xin Mẹ thương cứu giúp chúng con. Amen.
Chi tiết

Cáo phó: Linh mục Giuse Trần Thanh Hương đã về với Chúa

Xin mọi người hợp ý cầu nguyện cho Cha Giu se Trần Thanh Hương.
Người Mục tử nhân lành luôn hết lòng vì đoàn chiên !

CÁO PHÓ

Trong niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh, Giáo phận Vinh và Giáo phận Hà Tĩnh vô cùng thương tiếc báo tin Linh mục Giuse Trần Thanh Hương đã về cùng Chúa lúc 16h45 ngày 9 tháng 5 năm 2019 (tức ngày 5/4/2019 Âm lịch) Tại Giáo Xứ Trại Lê (Giáo phận Hà Tĩnh). Cha Hưởng Thọ 84 tuổi.


Linh mục Giuse Trần Thanh Hương sinh năm 1935, sau một thời gian lâm bệnh do tuổi già sức yếu Cha đã an nghỉ trong Chúa.


Cậy vì Lòng Chúa Thương Xót ban cho linh hồn Cha Giuse được phục sinh với Đức Kitô và được ở cùng các Thánh trên Quê Trời.
Chi tiết

Lời cầu nguyện khi bạn nản lòng và thất vọng

Lạy Chúa, con tín thác vào lòng nhân từ của Chúa. Con bày tỏ với Chúa những thất vọng và những nỗi đau tràn ngập trong con. Con không nhận được những gì con muốn. Xin giúp con vượt qua nỗi chán chường này và cho con tiếp tục kiên cường chiến đấu. Xin đưa con lên khỏi hố sâu tuyệt vọng và cho con sức mạnh để làm điều tốt đẹp. Xin giải thoát con khỏi cảm xúc thất vọng, và thúc đẩy con làm việc chăm chỉ hơn.


Lạy Chúa, xin cất đi tấm màn kiêu căng, để con có thể nhìn thấy rõ lòng mình hơn. Dù không có được những gì ao ước, con vẫn phải tiếp tục gắng hết sức mình; cả khi không được thành công con cũng không đổ lỗi cho người khác; nếu kỳ vọng không thành, con cũng không than van hay phê phán và biết vui vẻ đón nhận mọi sự như Thánh Ý Chúa gửi đến cho con. Trong lúc tăm tối nhất của cuộc đời, đừng để con không được đánh mất hy vọng. Con biết mình có nhiều lỗi phạm nhưng Chúa vẫn thấy điều tốt đẹp trong con. Chúa bỏ qua những lầm lỗi của con, xoa dịu những nỗi đau trong con, và tha thứ mọi tội con đã phạm.

Con cám ơn Chúa vì Chúa đã hiện diện bên con, đã tin tưởng con, đã làm cho con mọi sự, đã giao phó sự sống của Chúa cho con, đã trao cho con vòng hoa chiến thắng. Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì tất cả. Amen”.
Chi tiết

Phạm những tội nào thì không được rước lễ?

Theo Giáo Luật điều 916 thì những ai ý thức mình phạm tội nặng mà chưa xưng tội trước thì không đươc rước lễ. Trừ khi có lý do quan trọng như nguy tử hay có sự phiền phức nghiêm trọng nếu không chịu lễ và không có linh mục giải tội hay không thể đến được với các ngài thì phải thống hối trọn vẹn và dốc quyết đi xưng tội sớm ngần nào có thể nghĩa là trong khoảng một tuần.

Còn tội trọng là những tội nào? Chắc bạn đang muốn có một danh sách các tội trọng để có thể căn cứ vào đó biết mình có thể được rước lễ hay không. Trước khi nói đến việc lập một danh sách như vậy bạn cần phải hiểu thế nào là tội trọng.


Một tội được coi là trọng khi hội đủ ba điều kiện : “Phạm một lỗi nặng, với đầy đủ ý thức và cố tình” (Giáo Lý Công Giáo số1857).

Như vậy để phạm một tội trọng có ba yếu tố:

a) Một lỗi nặng nghĩa là một điều được xác định trong Mười Điều Răn, như Đức Giê-su trả lời người thanh niên giàu có : “Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thảo kính cha mẹ” (Mc 10,19). Tội có thể nặng hoặc nhẹ : tội giết người nặng hơn trộm cắp. Phải xét đến cả phẩm giá của những người bị xúc phạm : tội hành hung cha mẹ nặng hơn tội hành hung một người lạ.( Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo số1858)

Trong sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo ở phần Mười Điều Răn sẽ nói rõ về những tội nghịch với các Điều răn ấy như :

Điều Răn I : Mê tín, thờ ngẫu tượng, bói toán và ma thuật, thử thách Thiên Chúa, phạm thánh, mại thánh, vô thần…

Điều Răn II : Lạm dụng Danh Chúa, lộng ngôn xúc phạm Danh Chúa, Đức Mẹ và các Thánh, dùng Danh Chúa vào việc ma thuật, thề gian kêu cầu Chúa chứng giám cho điều nói dối, bội thề…

Điều Răn III : Bỏ tham dự Thánh Lễ Chủ Nhật và lễ buộc không có lý do quan trọng, lao động và sinh hoạt ngăn trở việc thờ phựơng Chúa…

Điều Răn IV : lỗi bổn phận thảo hiếu với cha mẹ, lỗi trách nhiêm trong đời sống gia đình ( chồng ,vợ, anh, em), Lỗi bổn phận trong xã hội ( người lãnh đạo, nhà cầm quyền, công dân, giáo viên …)…

Điều Răn V : cố ý giết người, đả thương, bỏ mặc người lâm nguy, phá thai, giết chết tránh đau, tự sát, chè chén say sưa, ăn uống quá độ, sử dụng ma tuý, bắt cóc, giữ làm con tin, gây chiến tranh, hận thù, gây gương xấu lôi kéo người khác cố ý phạm lỗi nặng…

Điều Răn VI : Dâm ô, thủ dâm, tà dâm, sản xuất sách báo phim ảnh khiêu dâm, mại dâm, hiếp dâm, hành vi đồng tính, ngoại tình, ly dị, đa thê, loạn luân, sống không hôn phối, triệt sản, ngừa thai, thụ tinh nhân tạo…

Điều Răn VII : Lỗi công bằng, chiếm đoạt hay sử dụng tài sản kẻ khác cách bất công, trộm cắp, bội tín, cờ bạc gian lận, không đền bù thiệt hại, dùng tiền của, vật chất nô lệ hoá con người , phá hoại môi sinh, gây thiệt hại công ích…

Điều Răn VIII : chứng dối, thề gian, làm mất thanh danh và danh dự người khác, phán đoán hồ đồ, nói xấu, vu khống, tâng bốc đồng loã điều xấu đồi bại, nói dối làm thiệt hại nặng nề, lừa dối…

Điều Răn IX : chiều theo các dục vọng của xác thịt, sống phóng túng…

Điều Răn X : thèm muốn của cải người khác, ước muốn điều bất công hại đến tài sản người khác, ganh tị…

Đây chỉ là tóm tắt những lỗi nghịch với 10 điều răn. Các lỗi ấy nặng nhẹ còn tuỳ ở mức độ vi phạm, gây thiệt hại nặng nề, lỗi đức công bình và đức ái nữa vì tội trọng phá hủy đức mến trong lòng con người do vi phạm nghiêm trọng luật Thiên Chúa, muốn quay lưng với Thiên Chúa. Nếu muốn hiểu rõ hơn xin tham khảo sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo từ số 2052 đến 2257.


b) Ngoài ra , tội trọng đòi phải có nhận thức đầy đủ và hoàn toàn ưng thuận. Điều này giả thiết người phạm tội phải biết hành vi đó là tội, trái với luật Thiên Chúa.

c) Tội trọng bao hàm một sự ưng thuận có suy nghĩ cặn kẽ để trở thành một lựa chọn cá nhân. (Giáo Lý Công Giáo số 1859 )

Nếu thiếu hiểu biết ngoài ý muốn, người phạm lỗi nặng có thể được giảm hoặc miễn trách nhiệm. Nhưng không ai được coi là không biết đến những nguyên tắc của luân lý đã được ghi khắc trong lương tâm mỗi người. Các thúc đẩy của bản năng, các đam mê, các áp lực bên ngoài, hoặc những rối loạn do bệnh tật, cũng có thể làm cho hành vi phạm lỗi bớt tính cách tự ý và tự do. (Giáo Lý Công Giáo 1860)

Hội đủ những điều kiện nêu trên thì coi như đã phạm tội trọng

Còn phạm tội nhẹ là khi vi phạm luật luân lý trong điều nhẹ, hay lỗi điều nặng nhưng không hoàn toàn hiểu biết hay ưng thuận. Trong trường hợp này bạn vẫn có thể lên rước lễ.

Trong phạm vi trả lời những thắc mắc thì không thể trình bầy cặn kẽ mọi khía cạnh được đồng thời có nhiều hoàn cảnh đa dạng và phức tạp của từng cá nhân nên cần có sự trao đổi với cha giải tội để ngài có thể giúp cách cụ thể được.
Chi tiết

Những điều bạn cần biết về Cha Long – Lòng Chúa Thương Xót

Cha Long với linh đạo Lòng Chúa Thương Xót, có tài trong giảng phòng thu hút hàng ngàn người quy tụ về nghe giảng, thánh lễ thì kéo dài gần 2 tiếng đồng hồ. Thế mà dòng người cứ ùn ùn kéo về người bên lương có, người bên giáo có.

Ai chưa biết về cha Giuse Trần Đình Long, tưởng nên đọc bài viết này để phần nào biết được những thông tin của ngài.


Sau đây là một số điều mà bạn cần biết về Cha Giuse Trần Đình Long:

– Một sức mạnh phi thường để làm việc với cường độ rất cao: lịch giảng phòng, dâng lễ, đi thăm hỏi người nghèo và làm từ thiện…dày đặc, nhưng thấy con người cha lúc nào cũng hoạt bát khoẻ khắn. Chỉ nội việc cha đứng gần như suốt ngày để đặt tay lên từng người giáo dân mà chúc phúc cho họ, cũng đã thấy mỏi mệt lắm rồi.

– Một bộ óc siêu phàm được lập trình phong phú đa năng, đa chiều kích. Đọc xong bài phúc âm, ngôn từ ào ào như thác đổ, để cha thao thao bất tuyệt. Dường như cha chẳng cần phải soạn dàn bài, mà nói đến đâu ngôn từ tuôn ra đến đó.

– Một tâm hồn nhạy cảm, giàu cảm xúc: để cùng vui cùng cười, cùng buồn, cùng chia sẻ nỗi niềm với cộng đoàn trong các câu chuyện đời dâu bể của những chứng nhân lên chia sẻ…Nói đến đâu, phụ hoạ vào vài câu nhạc rất đúng hoàn cảnh, khiến cho tâm thế người nghe đọng lại nhiều cảm xúc…


– Một tâm linh hướng thượng: Cha luôn đề cao lòng thương xót Chúa là đỉnh điểm của các bài giảng phòng của cha. Cha luôn trích lời của ĐTC Phanxicô, Thánh Phao Lô, Thánh kinh…để minh hoạ cho vấn đề thêm rõ. Nhìn chung là cha luôn lấy lẽ đạo Công giáo làm trục chính để mọi câu chuyện xoay quanh đó.

– Một hoạt náo viên cuốn hút và biết kích động người nghe: Tuy giọng của cha Long không có hồn, không mềm mại, không gây cảm xúc. Nhưng đổi lại cha có sự hoạt náo, sự cường ngôn của cha gây bão táp mưa sa, khiến cho người nghe cuốn hút, mê mẫn …

Người ta nói: khi còn ở GX Chí Hoà, có lần cha Long thuyết giảng, một đám đông khổng lồ đã vây quanh khuôn viên GX và kể cả đứng lấn sân ra lề đường để được nghe cha thuyết giảng với con số kỷ lục khoảng hơn 20 ngàn người…

Cha Long qua bài phúc âm lại quãng diễn cái đời thường thực tế hơn, cùng sống, cùng hoà mình vào với đám đông, nên sức thu hút của cha là lớn hơn là điều dễ hiểu. Con người ta vốn thích những điều thực tế quanh cuộc sống hơn là những điều cao đạo viễn vông khó hiểu. Chính Chúa Giêsu ngày xưa ngài rao giảng rất đời thường nên thu hút được đám đông nghe ngài giảng.


Nếu bạn đang muốn xin ơn, thì đừng ngần ngại đến với Ngài. Biết đâu được bạn là người được Chúa nhậm lời qua lời chuyển cầu của Cha.
Chi tiết

Làm thế nào để nhận Ơn Toàn Xá Trong Ngày Chúa Nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa ?

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã quyết định các tín hữu có thể được hưởng ơn toàn xá trong ngày Chúa Nhật Lễ Kính Lòng Thương Xót Chúa vào Chúa Nhật thứ hai Lễ Phục Sinh. Quyết định trên đây được công bố trong sắc lệnh của Tòa Ân Giải Tối Cao đăng trên báo Quan Sát Viên Rôma của Tòa Thánh.

Sắc lệnh khẳng định rằng Ơn Toàn xá được ban với những điều kiện thường lệ là xưng tội, rước lễ và cầu nguyện theo ý Đức Thánh Cha cho những tín hữu nào trong ngày Chúa Nhật thứ hai sau lễ Phục Sinh tức là Chúa Nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa tại bất kỳ nhà thờ nào, với lòng quyết tâm từ bỏ mọi quyến rũ tội lỗi, kể cả tội nhẹ; và tham dự vào các việc đạo đức tôn vinh lòng từ bi Chúa, hay ít là đọc Kinh Lạy Cha và Kinh Tin Kính cùng với sự kêu cầu Chúa Giêsu từ bi trước sự hiện diện của Mình Thánh Chúa được trưng bày công khai hoặc giữ trong nhà tạm.


Để xứng đáng mừng ngày lễ Kính Lòng Thương Xót Chúa, chúng ta cần:

1. Đón mừng lễ Kính Lòng Thương Xót Chúa vào Chủ Nhật đầu tiên sau Lễ Phục Sinh (Chúa Nhật II Phục Sinh).
2. Thành tâm thống hối ăn năn tất cả tội lỗi của chúng ta.
3. Đặt tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Giêsu.
4. Đi xưng tội, tốt nhất là nên xưng tội trước ngày Chúa Nhật của ngày lễ này.
5. Rước Mình và Máu Thánh Chúa trong ngày lễ này.
6. Tôn kính thánh ảnh Lòng Thương Xót Chúa.
7. Đối xử đầy thương xót với mọi người qua hành động, lời nói, việc làm và cầu nguyện thay cho họ.


SỰ TÔN SÙNG ẢNH LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

Ảnh Chúa Giêsu, Lòng Thương Xót Chúa phải có ở một nơi vinh dự nhất vào ngày mừng lễ Kính Lòng Thương Xót Chúa. Ảnh của Ngài cũng nhắc cho ta tưởng nhớ về cuộc Khổ Nạn, sự Chết và sự Phục-Sinh mà Ngài đã trải qua vì chúng ta, và cũng để nhắc nhở điều mà Chúa đòi hỏi chúng ta đáp trả cho Ngài – tuyệt đối tin tưởng nơi Ngài và khoan dung với mọi người:

“Ta muốn hình ảnh Ta phải được tôn kính trong ngày Chúa Nhật đầu tiên sau Lễ Phục Sinh, và ta muốn điều này phải được tôn vinh một cách công khai để các linh hồn biết về điều này.


ÂN SỦNG TUYỆT VỜI CHO NHỮNG AI ĐỌC CHUỖI KINH LÒNG THƯƠNG XÓT

Khi đang cầu nguyện bằng chuỗi Kính Lòng Thương Xót, tôi (faustina) thấy vị thiên thần trở nên bất lực: không thể thực hiện án phạt Công Thẳng xứng với tội lỗi thế giới. (474)

• Giải hòa với Thiên Chúa và khẩn nài được Lòng CHUA Xót Thương. (714)
• Đem nhân lọại đến gần Cha hơn. (929)
• Nhận được Lòng Thương Xót bao la trong gìơ lâm tử. (687)
• Các linh mục hãy giới thiệu chuỗi kinh ấy cho các tội nhân như niềm trông cậy sau cùng cho ƠN CỨU ĐỘ. (687)
• Một tội nhân dù chai đá , cứng lòng đến mấy, nhưng nếu đọc chuỗi kinh này, dù chỉ một lần duy nhất mà thôi, cũng sẽ nhận được ơn thánh do lòng lân tuất vô cùng của Cha. (687)
• Ân sủng trọng đại biết bao cho những linh hồn đọc chuỗi kinh, Lòng Thương Xót sâu nhiệm của Cha cảm kích vì những người đọc chuỗi kinh này. (848)
• mọi sự đều có thể xin được nhờ chuỗi kinh này. (Faustina cầu được mưa trong 3 tiếng ).
• Hãy cổ động đọc chuỗi kinh… Cha vui lòng ban mọi điều họ nài xin Cha bằng việc lần chuỗi kinh ấy. (1128)
• Khi những tội nhân cứng lòng đọc chuỗi kinh, Cha sẽ đổ đầy bình an cho linh hồn họ, và giò chết của họ sẽ là một giờ hạnh phúc. (1541)
• Đọc chuỗi kinh này bên người hấp hối, Cha sẽ đứng giữa Chúa Cha và người hấp hối ấy, không phải với tư cách Thẩm Phán chí công, nhưng là Đấng Cứu Độ nhân lành. (1541)
Chi tiết

Đánh bom 3 nhà thờ Công giáo ở Sri Lanka Colombo vào lễ Phục sinh, ít nhất 160 người tử nạn

Ba nhà thờ Công giáo và ba khách sạn lớn tại thủ đô Sri Lanka và vùng phụ cận vừa bị đá.nh bo.m vào ngày lễ Phục sinh khiến ít nhất 160 người thiệt mạ.ng và 500 người bị thươ.ng. Hãng tin Reuters dẫn lời cảnh sát địa phương cho biết có nhiều vụ nổ lớn tại các khách sạn cao cấp và một nhà thờ ở thủ đô Colombo của Sri Lanka ngày hôm nay 21-4. Hai nhà thờ khác ngoài thủ đô cũng bị đá.nh bom.


Kênh Newsfirst Sri Lanka dẫn lời giới chức địa phương cho biết ngoài 160 người thiệt mạ.ng, còn có hơn 500 người khác bị thương. Cảnh sát cho biết có 35 người nước ngoài t.ử vo.ng và nguồn tin bệnh viện cho biết các nạn nhân bao gồm công dân Anh, Mỹ, Hà Lan.

Các chiến dịch cứu trợ đang diễn ra

Ngay trước đó, thủ tướng Sri Lanka Ranil Wickremesinghe đã lên tiếng chỉ trích vụ tấn công “hèn hạ” sau khi triệu tập cuộc họp Hội đồng an ninh khẩn cấp.

“Tôi mạnh mẽ lên án vụ tấn công hèn hạ nhắm vào người dân của chúng ta ngày hôm nay. Tôi kêu gọi tất cả người dân Sri Lanka trong thời điểm bi kịch này giữ vững đoàn kết và mạnh mẽ” – hãng tin AFP dẫn lời thủ tướng Sri Lanka, cho biết chính phủ sẽ lập tức có các biện pháp để kiểm soát tình hình.


Bộ trưởng Tài chính Mangala Samaraweera cho biết các vụ tấn công này đã cướp đi sinh mạng của “nhiều người vô tội” và có thể là âm mưu có tổ chức nhằm gây hỗn loạn đất nước.

Vụ nổ đầu tiên được cho là xảy ra tại nhà thờ Thánh Anthony (St. Anthony’s Shrine) ở thủ đô Colombo.


Nhân chứng tại hiện trường Alex Agileson cho biết các tòa nhà xung quanh rung lên sau vụ nổ. Hiện những người bị thương đang được chở đi cấp cứu.

Vụ nổ thứ hai xảy ra tại nhà thờ Thánh Sebastian (St. Sebastian) ở Negombo, thành phố có số đông là dân Công giáo. Riêng ở nơi này đã có ít nhất 50 người thiệt mạng.


Nhiều nhân chứng trước đó đã chứng kiến hung thủ ôm bom tự sát lao vào nhà thờ. Hiện vẫn chưa có người nhận trách nhiệm vụ đánh bom.

Hãng tin AFP cho biết 10 ngày trước khi loạt vụ nổ này xảy ra, người đứng đầu lực lượng cảnh sát Sri Lanka Pujuth Jayasundara đã đưa ra cảnh báo trên toàn quốc về việc các phần tử đánh bom liều chết âm mưu tấn công các nhà thờ.


Theo cảnh báo, một cơ quan tình báo nước ngoài đã thông báo về việc tổ chức National Thowheeth Jama’ath (NTJ) đang lên kế hoạch tiến hành các vụ tấn công liều chết nhằm vào các nhà thờ và cơ quan đại diện của Ấn Độ tại thủ đô Colombo.


NTJ là một nhóm Hồi giáo cực đoan, được biết đến tại Sri Lanka vào năm 2018 khi liên quan đến việc phá hoại các bức tượng Phật giáo.

Tuy nhiên, đến giờ chưa có nhóm nào đứng ra nhận trách nhiệm các vụ tấn công.
Chi tiết

Ý nghĩa ngày Thứ Bảy Tuần Thánh

Ngày thứ Bảy tuần thánh, Giáo Hội dừng chân trước mộ Chúa Giêsu để suy niệm về cuộc khổ nạn đau thương của Ngài. Chính vì vậy, Giáo Hội gọi ngày thứ Bảy tuần thánh là ngày thầm lặng.

Theo cái nhìn của loài người thì đây là ngày buồn nhất trong năm. Không khí đượm màu tang tóc. Vì Chúa Giêsu đã chết, được an táng trong mồ. Nhưng như lời Chúa Giêsu đã tiên báo “Sau ba ngày Ngài sẽ sống lại” (x. Mc 8, 31; Mc 9, 31; Mc 10, 33- 34). Vì vậy, Giáo Hội tưởng niệm cái chết của Chúa trong niềm hy vọng phục sinh. Chính đêm nay, niềm hy vọng phục sinh đã bừng lên trong toàn thể Giáo Hội. Đức Kitô đã chiến thắng sự chết. Ngài đã sống lại, đó là niềm vui, niềm hy vọng và là nền tảng niềm tin của tất cả mọi người kitô hữu chúng ta. Bởi vì, Giáo Hội đã được khai sinh từ mầu nhiệm trọng đại này, và đó cũng là đích điểm của mọi người kitô hữu chúng ta.


Lễ nghi đêm nay bắt đầu bằng nghi thức thắp nến phục sinh. Toàn thể thế giới nằm trong bóng tối, và đang mong đợi ánh sáng, nhân loại đang trông chờ ơn giải thoát. Chủ tế bắt đầu nghi thức làm phép lửa và thắp lên cây nến phục sinh. Cả nhà thờ đang tối tăm, bổng ánh sáng phục sinh chiếu soi lan toả. Ánh sáng phục sinh tượng trưng cho Chúa Kitô đã sống lại. Chúa Kitô đến xua tan bóng tối tội lỗi, sự chết, sự thất vọng, để đi vào sự sống bất diệt. Trong lời nguyện làm phép lửa, Giáo Hội cầu xin Thiên Chúa cho ngọn lửa khao khát nước trời thiêu đốt tâm hồn các tín hữu và thanh tẩy muôn vàn tội lỗi, để mai sau họ được xứng đáng tham dự ánh sáng ngàn thu.

Trong đêm nay, mỗi người kitô hữu chúng ta đều cầm nến sáng được thắp từ cây nến phục sinh, tượng trưng cho ánh sáng Chúa Kitô. Chính vì vậy, đời sống của mỗi người chúng ta phải chiếu sáng cho những người xung quanh. Khi đứng cầm nến sáng trong tay, Giáo Hội còn nhắc nhở chúng ta phải có thái độ tỉnh thức, sẵn sàng để đón chờ Chúa Kitô ngự đến trong ngày chung thẩm.


Trong phần công bố Tin Mừng Phục sinh, Giáo Hội kêu mời mọi người kitô hữu chúng ta “Hãy vui lên”. Vui lên vì Chúa đã khải hoàn. Vui lên vì Chúa đã chiến thắng thần chết. Vui vì :

Đêm cực thánh khử trừ muôn tội vạ, 
đêm vạn năng thanh tẩy hết lỗi lầm, 
biến tội nhân thành con người công chính, 
đem vui mừng cho hồn nặng sầu thương.

Trong phần phụng vụ Lời Chúa, Giáo Hội cho chúng ta đọc 9 bài sách thánh: 7 bài Cựu Ước, 1 bài Thánh Thư và một bài Tin Mừng. Tất cả các bài đọc hôm nay, giúp chúng ta suy niệm về chương trình ơn cứu độ của Thiên Chúa theo dòng lịch sử từ thời Cựu Ước sang thời Tân Ước. Việc Thiên Chúa yêu thương tạo dựng muôn loài, nhất là tạo dựng con người giống hình ảnh của Ngài (Bài đọc I). Đến việc ông Apraham vâng lệnh Chúa sát tế người con duy nhất của mình là Isaac, chính vì sự vâng phục này mà ông được gọi là “Cha của kẻ tin”. Ông còn được Chúa chúc phúc để trở thành cha của một dân tộc đông đúc như sao trên trời, như cát dưới biển. Việc sát tế này là hình ảnh tiên báo việc sát tế Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa sau này (Bài đọc II).

Rồi đến sự kiện dân Do Thái đi qua biển đỏ khô chân và được bình an. Đó là hình ảnh của cuộc giải thoát mới do công trình cứu độ của Đức Kitô. Đó cũng là cuộc giải thoát dân Do Thái khỏi kiếp nô lệ đến vùng tự do (Bài đọc III).


Khi dân Do Thái đang sống trong kiếp lưu đày tại Babilon, vì đã bất trung với Thiên Chúa, nhưng họ đã sám hối nên Chúa lại tha thứ cho họ. Rồi Chúa lấy lòng nhân từ vô biên qui tụ họ lại để họ vui hưởng nền hoà bình lâu dài (Bài đọc IV).

Chính tiên tri Isaia đã loan báo một thời thịnh đạt mà Israel sẽ vui hưởng, thời kỳ mà Thiên Chúa sẽ ký kết một giao ước vĩnh cửu với những hồng ân mà Ngài đã hứa với Đavít. Chính điều này sẽ được thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô (Bài đọc V).

Nhưng dân Do Thái đã bỏ Chúa đi tôn thờ thần tượng, phạm đủ thứ tội nên họ bị lưu đày. Tiên tri Êzekiel đã chọ họ biết như vậy. Nhưng rồi Chúa sẽ qui tụ họ về, thanh tẩy họ, ban cho họ một quả tim và một thần trí mới để họ thực thi huấn lệnh Ngài (Bài đọc VI).

Bài đọc Thánh Thư dẫn chúng ta vào ý nghĩa của bí tích Rửa Tội. Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta đã chịu Phép Rửa Tội, tức là chúng ta cùng chết với tội và chết cho Chúa Kitô để được sống lại với Người (x. Rm 6, 3-11).

Đó cũng là mong muốn của Giáo Hội mời gọi mỗi người chúng ta tuyên thệ lại lời hứa khi chịu Phép Rửa Tội trong phần Phụng Vụ Thánh Tẩy. Nhờ cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu mà chúng ta được khỏi tội. Cho nên, qua nghi thức này, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta hãy hiên ngang dấn thân theo Chúa và trung thành phụng vụ Người. Hãy chết đi cho tội, cho ích kỷ, cho những gì làm cho chúng ta xa Chúa, để luôn sống xứng đáng thân phận làm con Chúa và Giáo Hội.


Cuối cùng, bài Tin Mừng Thánh Luca tường thuật về sự kiện ngôi mộ trống và việc Chúa Phục Sinh hiện ra với bà Maria Mađalêna. Đây là sự kiện đầu tiên và hết sức quan trọng cho niềm tin Phục Sinh của cộng đoàn Kitô hữu sơ khai và cho mỗi người qua mọi thời đại.

Mừng vọng phục sinh đêm nay, chúng ta cảm tạ tình thương bao la của Chúa. Đồng thời để đáp lại tình thương đó chúng ta quyết tâm sống cho Chúa và chết cho tội, để cùng Người sống lại vinh quang. Xin Thánh Thể Chúa Giêsu mà chúng ta cử hành trong phần cuối cùng của đêm nay luôn đồng hành, dưỡng nuôi tâm hồn chúng ta trên con đường về với Ngài. Amen.
Chi tiết

5 Phép lạ Thánh Thể đang tồn tại cho đến ngày nay

Người Công Giáo tin rằng Bí tích Thánh thể (tức bánh lễ và rượu sau khi làm phép) thực sự là Mình và Máu của Chúa Giêsu Kitô. Nhiều câu chuyện về những phép lạ trong lịch sử Giáo Hội, dường như xác minh điều này.


Quan trọng là không người Công giáo nào bị buộc phải tin những câu chuyện phép lạ này. Dù Giáo hội đã điều tra và công nhận tính siêu nhiên, nhưng Giáo Hội không bảo đảm tuyệt đối tính xác thực của chúng. Và giáo lý về biến đổi bản thể không phụ thuộc vào tính xác thực của những câu chuyện này, nhưng dựa trên Kinh Thánh và Truyền thống Tông đồ.

Tuy nhiên, những câu chuyện đáng chú ý bởi ngày nay bạn vẫn có thể đến kiểm chứng về những phép lạ đó.

1. Phép lạ Thánh thể ở Lanciano – thế kỷ thứ 8

5 Phép lạ Thánh thể tồn tại cho đến ngày nay

Vào thế kỷ thứ 8, một linh mục ở Lanciano, Ý đã từng nghi ngờ về sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể. Trong một lần dâng lễ, khi vị linh mục đọc lời nguyện truyền phép “Đây là mình ta, đây là máu ta”, thì thấy bánh và rượu biến thành thịt và máu của người thật. Và máu kết tụ thành năm khối máu (sau này được cho là tượng trưng cho năm vết thương chí thánh của Chuá Giêsu. Tin tức về phép lạ lan truyền nhanh chóng, Đức tổng giám mục địa phương lúc ấy đã tiến hành một cuộc điều tra. Về sau Giáo hội đã công nhận phép lạ này.

Thịt và máu vẫn được bảo toàn cho đến tận ngày nay. Giáo sư giải phẫu Odoardo Linoli đã tiến hành phân tích khoa học về mẫu thịt vào năm 1971. Ông kết luận rằng mẫu thịt là thuộc mô tim, máu có vẻ như là máu tươi (thay vì máu có 1200 tuổi, tính từ thời điểm xảy ra phép lạ) và không có dấu vết của chất bảo quản. Bạn có thể viếng thăm để chiêm ngưỡng mẫu thịt và máu kỳ diệu này trong Nhà thờ San Francesco ở Lanciano, Ý.

2. Khăn thánh ở Bolsena, Ý – thế kỷ 13

5 Phép lạ Thánh thể tồn tại cho đến ngày nay

Một linh mục khác, người cũng nghi ngờ về sự biến đổi bản thể trong Bí tích Thánh Thể khi đang làm lễ tại Orvieto, Ý. Và ngay sau khi ngài truyền phép cho bánh và rượu, bánh thánh (tức Mình thánh Chúa Kitô) bắt đầu chảy máu trên khăn thánh đặt trên bàn thờ. Vị linh mục đã đem câu chuyện, chạy đến thưa với đức giáo hoàng bởi ngài đang thăm viếng thành phố và thú nhận tội nghi ngờ của mình. Chiến khăn thánh hiện vẫn được trưng bày tại Nhà thờ Orvieto.

Tuy nhiên, một số sử gia nghi vấn về tính xác thực của câu chuyện, vì những ghi chép đầu tiên về phép lạ chỉ xuất hiện khoảng một trăm năm sau khi phép lạ xảy ra. Tuy nhiên, khăn thánh vẫn được tôn kính.

3. Bánh Thánh tại Siena, Ý – thế kỷ 18

5 Phép lạ Thánh thể tồn tại cho đến ngày nay

Vào ngày 14 tháng 8 năm 1730, khi những người Công giáo ở Siena, Ý đang tham dự lễ vọng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm, thì những tên trộm đã vào nhà thờ Thánh Phanxicô và lấy bình thánh vàng chứa hàng trăm bánh thánh đã được làm phép.

Hai ngày sau, có người phát hiện một thứ gì đó màu trắng, nhô ra từ thùng tiền dâng cúng trong một nhà thờ khác tại Siena. Các linh mục mở thùng tiền ra, và tìm thấy những chiếc bánh thánh đã bị mất cắp bên trong thùng, đang vướng mạng nhện và ít bụi bẩn. Sau khi được làm sạch hết mức có thể, bánh thánh được đặt trong một bình thánh mới, và được đưa về Nhà thờ Thánh Phanxicô để thờ phượng và tôn kính.

Vì bánh thánh đã bẩn, nên các linh mục quyết định không dùng trong phụng vụ nữa, nhưng để cho bánh tự hủy theo thời gian. Sau vài thâp niên, mọi người đều ngạc nhiên khi thấy rằng bánh thánh không bị hư nát mà vẫn nguyên vẹn.

Bánh thánh hiện vẫn còn nguyên sau 285 năm, và được trưng bày tại đền thờ thánh Phanxicô ở Siena, Ý.

4. Phép lạ ở Chirattakonamê, Ấn Độ – thế kỷ 21

5 Phép lạ Thánh thể tồn tại cho đến ngày nay

Vào ngày 28 tháng 4 năm 2001, khi buổi chầu Thánh thể đang diễn ra tại giáo xứ Thánh Maria ở Chirattakonam, Ấn Độ, thì đột nhiên có ba vết đỏ xuất hiện trên Bánh thánh. Vị linh mục không biết phải làm gì và đã đưa bánh thánh trở lại Nhà tạm. Vài ngày sau, vị linh mục kiểm tra lại và những vết đỏ đã tự xếp lại giống như gương mặt của một người đàn ông (phải chăng đó là Chúa Giêsu?). Ngài nhanh chóng tìm một nhiếp ảnh gia và chụp lạ hình bánh thánh.

5. Phép Lạ Thánh Thể ở Santarém, Bồ Đào Nha – thế kỷ 13

5 Phép lạ Thánh thể tồn tại cho đến ngày nay


Có một phụ nữ sống ở Santarém, Bồ Đào Nha vào thế kỷ 13. Bà rất đau khổ vì chồng không chung thủy với bà, nên bà quyết định nhờ một phù thủy giúp đỡ. Nữ phù thủy yêu cầu bà phải trả bằng một bánh thánh đã được làm phép.

Bà đến tham dự thánh lễ tại nhà thờ thánh Stêphanô và rước lễ, sau đó lấy bánh thánh ra khỏi miệng, quấn vào mạng che mặt rồi đi ra, cốt để đưa cho bà phù thủy. Tuy nhiên trước khi bà ra ngoài, bánh thánh bắt đầu chảy máu.

Khi về nhà, bà để bánh thánh chảy máu trong một cái rương (hòm). Đêm đó, một ánh sáng huyền ảo phát ra từ chiếc rương. Bà hối hận về những gì đã làm, nên đã xưng thú tội lỗi với linh mục vào sáng hôm sau. Vị linh mục đã đến và lấy lại bánh thánh để đưa trở lại nhà thờ.

Sau khi Giáo hội điều tra và công nhận phép lạ, nhà thờ được đổi tên thành Nhà thờ Phép lạ, và bánh thánh vẫn còn được lưu giữ tới ngày nay.
Chi tiết

14 Thánh Tích Mà Chúa Giêsu Đã Để Lại

Thứ sáu tuần Thánh, kính mời quý vị và anh chị em cùng chiêm ngắm những ” kỷ vật tình yêu ” – những Thánh tích mà Chúa Giê-su đã để lại cho chúng ta sau hơn 2000 năm lịch sử.


Đây là bằng chứng để chúng ta hiểu rõ rằng Đấng mà chúng ta tôn thờ là hiện hữu. Sit laus Christo Iesu- Ngợi khen Chúa Giêsu Kitô.

1. Mũ vải:


Thời Chúa Giê su, đầu người chết thường được che hay trùm bằng 1 loại mũ vải và được các tông đồ nhắc đến sau khi Phục Sinh. Đây là mũ được tin là của Chúa, Di tích này lưu giữ ở Jerusalem gần 800 sau đó được trao cho Charlemagne và cuối cùng được trao cho Đức Giám Mục Cahors, Pháp.

Ngày nay được cất giữ tại nhà nguyện thánh Saint Gausbert in Cahors tại Pháp

2. Khăn liệm thành Turin


là tấm vải bao bọc thi hài của Chúa Giêsu, được bảo tồn ở Vương Cung Thánh Đường Gioan Tẩy Giả tại Turin, Ý.

3. Vòng Mão Gai:

Quân Lính đội đầu Chúa thay vương niệm cho 1 ông Vua – thứ 6 chịu Chết.


Di tích là 1 phần kho báu của nhà thờ Đức Bà Paris- the Cathedral of Notre Dame of Paris – từ năm 1806 do Thánh Lousi đã mang về từ Thế kỷ 13 và xây một nhà nguyện riêng tôn kính Thánh tích vào mỗi thứ 6 đầu tháng và thứ 6 tuần Thánh.

4. Đinh Thánh:


Thánh Helen được cho là đã tìm thấy những cây đinh đã dùng để đóng đinh Chúa vào Thập Giá khi bà tìm ra nơi cất giấu Thánh giá dưới hầm mỏ gần chân đồi Golgotha xưa. cây đinh đóng vào tay phải Chúa Giê su sau này được vua Constentine sử dụng cho ngựa của ngài và bị mất, sau đó lại tìm thấy ở Carpentras, thuộc khu vực đông nam nước pháp ngày nay, vì thế từ năm 1260 đến nay huy hiệu của thành phố này là 2 cây đinh Thánh đã dùng trong việc hành hình Chúa Giê su.

5. Cây Thánh Giá.


Trên thực tế, có rất nhiều mảnh của cây Thánh Giá Sự Thật được bảo tồn trong các nhà thờ trên thế giới. Mẫu dưới đây được lưu trữ tại Viện Bảo tàng kho báu hoàng đế ở Vienna, Áo.

6. Áo Thụng


Theo Phúc Âm Thánh Gioan, các binh sĩ sau khi hành quyết Chúa Giêsu không muốn làm hỏng chiếc áo vật phẩm của người bị hành hình nổi tiếng, mà thay vào đó muốn chơi trò đánh cược để xem ai có thể sở hữu chiếc áo đặc biệt không có đường may. Chiếc áo này đang có mặt tại Vương Cung Thánh Đường Trier ở thành phố Trier, Đức.

7. Cột Hành Hình:


Tương truyền, đây là cây cột mà Tổng trấn Philatô ra lệnh trói Chúa Giêsu vào và Ngài đã bị quất roi đầy đau đớn trong quá trình chịu khổ hình. Cột đang có mặt tại Vương Cung Thánh Đường thánh Praxedes ở Rome, Ý.

8. Cây giáo đã xiên vào lồng ngực của Chúa Giêsu khi Ngài trên thập tự giá


Theo trang History Today, vào ngày 15.6.1098, quân đội của Cuộc Thập Tự Chinh đầu tiên đã tìm được cây giáo thánh ở thành phố Antioch. Đây được cho là cây giáo đã xiên vào lồng ngực của Chúa Giêsu khi Ngài trên thập tự giá, hiện đang được bảo tồn tại Viện Bảo tàng kho báu hoàng đế ở Vienna, Áo.

9. Bảng Titulus Crucis- INRI


Titulus Crucis (tiếng Latin dịch từ “Bảng đề cho thánh giá”) là một mẩu gỗ được cho là lấy từ Cây Thánh Giá Sự Thật, hiện được lưu trữ tại nhà thờ Santa Croce thuộc Rome. Bảng gỗ được mang dòng chữ “Vua của người Do Thái”.

10. Chén Thánh:


Theo phong tục Do Thái, vào ngày Shabbat hay lễ lớn, họ thường có nghi thức đọc kinh cầu nguyện với rượu – thường 1 ly vị chủ tế cầu nguyện – sau đó truyền nhau mỗi người uống 1 ít. Đây chính là ly hay còn gọi là Chén Thánh. hiện tại được cất giữ tại Valencia Tây Ban Nha. Sau khi bị một thành viên tín đồ giấu kín trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha, nó đã được tôn kính đặc biệt vào năm 1982 trong chuyến viếng thăm của Đức Gioan Phaolô II, người đã dùng nó để cử hành Thánh Lễ sau khi tôn kính di tích trong nhà nguyện.

11. Áo lót Chúa Giêsu mặc trên đường Ngài vác thập giá ra Núi Sọ.


hiện tại đang cất giữ tại vương cung thánh đường the Basilica of Saint Denis of Argenteuil, ở Pháp, cứ 50 năm 1 lần sẽ trưng bày ra cho công chúng chiêm ngưỡng.

12 Một phần máng cỏ


được đặt tại Vương cung Thánh Đường Saint Mary Major ( Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Cả) tại Rome.

13. Vương niệm Hoàng Gia LOMBARDY


được làm năm 591, phần kim loại được gắn 1 trong những cây đinh Thánh đã được dùng để hành hình Chúa. Một số các vị Vua đã đội trong ngày nhậm chức của họ như Các vị vua từ Charlemagne đến Ferdinand I của Áo, bao gồm Charles V và Napoleon.

14. Lọ chứa máu thánh của Chúa Giêsu


Khi ông Giuse xứ Arimathea cẩn thận đỡ di thể của Chúa khỏi thánh giá, ông đã bảo tồn giọt máu hòa với nước lấy từ xác của Ngài, cũng như máu từ những vết thương do bị đóng đinh. Sau khi chết, ông đã truyền lại những thánh tích vô giá cho gia đình. Từ năm 1255, lọ chứa máu thánh được bảo tồn ở Vương Cung Thánh Đường Holy Blood ở Bruges, Bỉ.
Chi tiết

TẠI SAO KIÊNG THỊT MÀ KHÔNG KIÊNG CÁ?

Luật Giáo hội buộc tín hữu phải ăn chay kiêng thịt. Nhưng mà tại sao phải kiêng thịt? Tại sao phải kiêng thịt mà không kiêng cá, kiêng trứng hay kiêng trái cây? Ăn thịt có gì xấu không?

Trước hết, nên lưu ý tới việc sử dụng từ ngữ. Tiếng “ăn chay kiêng thịt” gợi lên cho chúng ta hai điều: một điều cấm (kiêng) và một điều khuyến khích. Điều cấm là kiêng thịt; điều khuyến khích là ăn chay. Chắc Chúng ta đã biết rằng ở Việt Nam có vài tôn giáo đã hiểu như vậy: ăn chay có nghĩa là ăn đồ chay, những đồ lạt, không mặn. Còn đối với Kitô giáo, ăn chay có nghĩa là kiêng ăn. Như thế, ngoài chuyện kiêng thịt lại còn thêm chuyện kiêng ăn nữa.


Vì vậy nếu muốn diễn tả cho đúng tư tưởng thì thay vì nói “ăn chay kiêng thịt”, chúng ta phải nói “kiêng ăn kiêng thịt” hoặc là “chay ăn chay thịt”! Nếu đặt lại vấn đề như vậy thì câu hỏi “tại sao phải kiêng thịt” đã được giải quyết một phần rồi, nghĩa là chúng ta kiêng thịt không phải tại vì thịt nó xấu xa, cũng như chúng ta kiêng ăn không phải tại vì sự ăn uống xấu xa: sự ăn uống cần thiết cho sự sống; nếu ai tuyệt thực hoàn toàn thì sẽ sớm qua bên kia thế giới.

Chúng ta kiêng thịt không phải vì nó xấu; thế thì tại sao lại chỉ kiêng thịt mà không kiêng luôn cả cá nữa?

Vấn đề kiêng thịt không phải là cái gì riêng của Kitô giáo. Nó đã có một truyền thống lâu đời ở các tôn giáo trên thế giới, tuy với những lý do và động lực khác nhau. Chẳng hạn như các tín đồ Phật giáo kiêng thịt bởi vì họ tin vào thuyết luân hồi: khi giết các súc vật, biết đâu ta đã giết chính ông bà của mình bị phạt đầu thai làm kiếp súc vật. Dĩ nhiên, Kitô giáo đã đặt ra kỷ luật kiêng thịt không phải tại vì tin theo thuyết luân hồi nhưng dựa theo một động lực khác. Trong Cựu ước, ta đã thấy có những luật về kiêng thịt với những chi tiết khá phức tạp, thí dụ trong chương 11 của sách Lê vi, phân biệt những thú vật ô uế với vật tinh tuyền.

Tại sao lại có sự phân biệt giữa các thú vật tinh tuyền với thú vật ô uế?

Các nhà chú giải Kinh thánh không trả lời được. Có lẽ tác giả của sách Lêvi đã lấy lại một tập tục có từ xa xưa mà không còn ai nhớ rõ gốc gác. Cho dù lý do phân loại thế nào đi chăng nữa, đến khi bước sang Tân ước, ta thấy có những cuộc cách mạng quan trọng. Chúa Giêsu đã xóa bỏ sự phân biệt giữa các vật tinh tuyền và vật ô uế. Sự tinh tuyền và ô uế nằm ở trong lòng của mình chứ thú vật chẳng có tội tình chi cả (Mc 7,15). Tuy nhiên, xem ra các Kitô hữu tiên khởi (phần lớn gốc Do thái) không thể thay đổi não trạng nhanh chóng, thí dụ như ở chương 10 của sách Tông đồ công vụ, ta thấy thánh Phêrô còn sợ chưa dám ăn một vài thứ chim trời đã bị xếp vào hàng ô uế; lật qua chương 15 (câu 20 và 29) ta còn thấy thánh Giacôbê muốn đòi buộc các tín hữu tân tòng phải kiêng tránh vài thức ăn. Nhưng thánh Phaolô đi mạnh mẽ hơn, nhất là vì ngài để ý tới dân ngoại hơn là tới dân Do thái.


Thực vậy, thánh Phaolô chấp nhận hoàn toàn giáo lý của đức Kitô, theo đó chẳng có lương thực nào là ô uế hết. Nhưng có một vấn đề được đặt ra là có được ăn đồ cúng hay không? Trong thư gửi Rôma 14,14-16 thánh Phaolô đã phân biệt như thế này: tự nó, đồ cúng hay đồ không cúng chẳng có gì khác nhau, cho nên các tín hữu không phải kiêng cữ. Tuy nhiên, nếu có người non nớt bị vấp phạm vì việc người tín hữu ăn đồ cúng, thì mình phải tránh. Nói khác đi, mình kiêng ăn đồ cúng không phải tại vì nó là đồ ô uế nhưng mà mình phải tránh gây gương xấu cho người anh em mình; đây là một bổn phận thuộc giới răn bác ái yêu thương.

Như vậy, thánh Phaolô khuyến khích chúng ta cứ tha hồ ăn uống, phải không?

Thánh Phaolô không bao giờ xúi các tín hữu ăn uống say sưa; trái lại, ngài đã hơn một lần khiển trách những người lấy cái bụng làm chúa. Thánh Phaolô chỉ muốn huấn luyện lương tâm của các tín hữu, hãy tìm hiểu cái lý do của các luật lệ, chứ không phải chỉ giữ luật lệ cách máy móc. Tất cả các lương thực đều tốt bởi vì do Chúa dựng nên cho con người. Chúng ta hãy hưởng dụng để ngợi khen Ngài. Việc ăn uống có thể trở thành cơ hội để chúc tụng tạ ơn Chúa như chúng ta đọc thấy ở thư gửi Rôma 14,6. Tuy nhiên, cần có chừng mực.

Hơn thế nữa, thánh Phaolô khuyến khích các tín hữu hãy tiến thêm một bước nữa, biết hy sinh cả những cái gì được phép làm: việc kiêng cữ những điều tốt nằm trong chương trình thao luyện tinh thần giống như các lực sĩ tập luyện ở thao trường (1Cr 9,27), nhất là để hoạ theo gương của đức Kitô chịu thụ nạn trên thập giá vì yêu thương chúng ta.


Nhưng nếu đã muốn kiêng khem lương thực thì kiêng hết các món, chứ sao lại chỉ kiêng thịt?

Như tôi đã nói ở đầu, trong Việt ngữ, vì đã quá quen với thành ngữ “ăn chay kiêng thịt” cho nên chúng ta chỉ giới hạn sự kiêng vào chuyện ăn thịt. Vấn đề kiêng cữ bao hàm việc kiềm chế hết những gì đem lại thỏa mãn thích thú, nhằm giúp cho ý chí chế ngự được bản năng. Theo một vài sử gia, trong những thế kỷ đầu tiên, Giáo hội phải mệt với những phe khắc khổ hơn là với phe phóng túng. Phe khắc khổ đòi Giáo hội phải ra luật buộc tất cả các tín hữu phải giữ chay.

Nhưng mà Giáo hội đâu có thể bắt hết mọi người phải trở thành nhà khổ tu được. Mặt khác, trong số các vị khổ tu thời đó, không thiếu những người chịu ảnh hưởng của thuyết ngộ giáo, coi xác thịt và hôn nhân là tội lỗi. Dù sao, việc khổ chế vào những thế kỷ đầu hoàn toàn mang tính cách tự nguyện. Nếu có luật lệ thì cũng chỉ giới hạn cho từng địa phương chứ không bao trùm toàn thể Giáo hội. Việc kiêng khem tuyệt đối thường được dành cho ngày thứ 6 tuần thánh, rồi dần dần kéo dài ra các ngày thứ 6 hằng tuần. Nhưng mà dần dần kỷ luật kiêng khem tuyệt đối (chay ăn) được gia giảm bởi vì nhiều tín hữu phải làm việc lao động nặng nhọc, cần ăn uống để lấy sức. Mức độ châm chế được thay đổi tùy vùng tùy nơi. Bên Trung đông, người ta kiêng cả sữa, bơ, trứng; nhưng mà bên Tây phương, người ta chỉ đòi kiêng thịt.


Từ thời Trung cổ, sự khổ chế tự nguyện biến thành khổ chế bắt buộc, nghĩa là trở thành luật buộc. Ngoài ra việc chay tịnh cũng là một hình phạt đền tội dành cho những hối nhân. Việc soạn thảo một bản văn pháp lý đòi hỏi phải xác định tỉ mỉ các chi tiết của nghĩa vụ. Hậu quả là người ta trở lại với não trạng của các luật sĩ vào thời Chúa Giêsu, với đủ thứ vấn nạn được nêu lên: luật kiêng thịt buộc phải kiêng những thứ gì? Có phải kiêng mỡ heo, kiêng sữa bò, tiết canh hay không? Các giống động vật nào phải kiêng: máu nóng hay máu lạnh? thú vật trên bộ hay là dưới nước? Ngan, ngỗng, vịt, lươn, rùa, sò ốc nhái có phải kiêng không? Các chuyên gia về luân lý tha hồ mà nghiên cứu tranh luận về các loại thịt. Tiếc rằng người ta đã mất đi cái động lực của nó là tinh thần khổ chế lúc đầu. Vì thế có cảnh ngược đời là có người mong tới ngày thứ 6 để có dịp đi ăn ở nhà hàng thủy sản thập cẩm. Đối lại là cái cảnh chảy nước mắt của bao dân nghèo phải chi tiền nhiều hơn vào ngày thứ 6, khi mà cá mắc hơn thịt.

Giáo luật ngày nay vẫn giữ nguyên tình trạng như vậy chứ?

Bộ giáo luật hiện hành vẫn còn duy trì luật kiêng thịt, tuy nhiên với một tinh thần mới của công đồng Vaticanô II mà đức Phaolô VI đã muốn tiêm nhiễm với tông hiến Poenitemini (17/2/1966). Tinh thần đó có thể tóm lại 3 điểm sau: Tiên vàn là phải kiêng những gì xấu xa, tức là kiêng phạm tội; nói khác đi việc chay ăn chay thịt phải được lồng trong tinh thần thống hối cải hoán.

Ngoài sự kiêng cái xấu, chúng ta hãy gắng tiến thêm một bước để kiêng cả cái tốt: sự kiêng cái tốt cũng nằm trong tinh thần đền tội và tu đức, để tập kiềm chế những đòi hỏi của bản năng dục vọng. Dưới khía cạnh này, lãnh vực kiêng khem rất là rộng: từ kiêng ăn uống cho tới kiêng thuốc lá, tivi, các thứ tiêu khiển giải trí, các thứ tiêu pha hoang phí. Bước thứ ba nữa là ngoài tính cách tiêu cực (kiêng lánh) cần thêm tính cách tích cực: nhịn ăn nhịn mặc để lấy tiền giúp đỡ người nghèo, tỏ tình tương trợ với người thiếu ăn thiếu mặc. Đó là cái động lực của việc kiêng khem. Các Hội đồng Giám mục sẽ tùy theo hoàn cảnh của mỗi địa phương mà đề ra những hình thái cụ thể trong việc áp dụng luật ăn chay kiêng thịt chiếu theo đ.1251 và 1253 của bộ giáo luật.

Lm. Phan Tấn Thành, O.P.
Chi tiết

Thứ 6 Tuần Thánh: Ăn chay và kiêng thịt

Mục đích và Ý nghĩa việc ăn chay kiêng thịt trong Giáo Hội Công Giáo?

Ăn chay là hình thức đền tội của Cựu Ước và Tân Ước: Chúa Giêsu giữ chay 40 đêm ngày để làm gương cho các tín hữu.


Luật ăn chay, giữ chay cần phải hiểu thế nào?

1. Mục đích và ý nghĩa:

+ Trở về với Thiên Chúa.
+ Noi gương Chúa Giêsu và vâng lời Giáo Hội.
+ Hy sinh hãm mình đền tội.
+ Thành tâm sám hối tội lỗi.
+ Tham gia công tác từ thiện, bác ái.
+ Cầu nguyện và làm việc lành.

2. Tiêu chuẩn:

+Tuổi giữ chay, theo GL 97 và 1252: “Mọi tín hữu tuổi từ 18 cho đến 60 tuổi thì buộc phải giữ chay”.
+ Tuổi ăn kiêng, theo GL 1252 “buộc những tín hữu tuổi từ 14 trở lên”.
+ Tại Việt Nam hiện nay chỉ còn buộc giữ chay hai ngày (Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh). Một số giáo phận còn giữ luật cũ (tất cả các ngày Thứ Sáu trong Mùa Chay).
+ Luật giữ chay kiêng thịt cũng có thể miễn hoặc giảm cho những người (già yếu, đau bệnh, phụ nữ có thai, phụ nữ nuôi con bằng sữa mẹ…)

3. Cách thức:

+ Chỉ ăn một bữa no trong ngày. Nếu lấy bữa trưa làm chính thì bữa sáng và bữa tối chỉ được ăn chút đỉnh mà thôi.
+ Không ăn các loại “thịt”.
+ Không ăn quà vặt trong ngày.
+ Không uống các thức uống có chất kích thích như rượu, bia…


4. Kinh Thánh dạy ta ăn chay thế nào để đẹp lòng Thiên Chúa?

– Is 58,2-12: Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?

– Ge 2,12-13: Đây là sấm ngôn của Đức Chúa: “Nhưng ngay cả lúc này, các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van”. Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, Người hối tiếc vì đã giáng hoạ.

– Hc 34,26: Cũng thế, kẻ ăn chay đền tội, rồi đi phạm lại vẫn những tội ấy, hỏi ai sẽ nghe lời nó cầu xin? Hạ mình kiểu đó, nào được ích lợi gì?

– Mt 6,16-18: Còn khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh em, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh em ăn chay, ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh em, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh em.


5. Tóm lại: Để có thể giữ chay tốt, ta nên chú ý đến ý nghĩa của việc giữ chay hơn là những tiêu chẩn và cách thức (hình thức). Ví dụ như: nếu ta giữ đúng những tiêu chuẩn và cách thức của luật giữ chay, mà lại thay thế bữa thịt bằng một bữa ăn đặc sản vùng biển tốn kém, thì còn gì là ý nghĩa chay tịnh nữa. Đàng khác, nếu ta chỉ giữ chay với thói quen hình thức, mà không yêu thương, từ tốn, nhã nhặn, tha thứ cho những người xung quanh ta, thì giữ chay nào có ích gì. Vậy, ăn chay theo đạo Công-giáo là nhịn ăn hoặc bớt ăn để diễn tả sự hy sinh tự nguyện, để cổ võ lòng đạo đức hoặc lập thêm công đức; hơn nữa, nhịn ăn hay bớt ăn cũng là để chia sẻ với người nghèo khó trong tinh thần bác ái và phục vụ.
Chi tiết

Tại sao người Công Giáo gọi Linh Mục là “CHA”?

Trong Phúc âm theo thánh Matthêu, Chúa Giêsu đã nói, “Đừng xưng hô ai dưới đất là “Cha” của anh em, vì Cha của anh em chỉ có một, Cha ở trên trời.” (Mt 23,9) Nghe qua, ta thấy lời này có vẻ mâu thuẫn với thói quen của người Công giáo thường gọi các linh mục là cha. Ngay cả như thế, câu này cũng có vẻ như bảo chúng ta đừng nên gọi bố mình là “cha” và chỉ có Chúa là người duy nhất chúng ta có thể gọi là cha.


Chúng ta phải hiểu như thế nào? 

Trong bối cảnh này, Chúa Giêsu đang nói về sự giả hình của các kinh sư và người Pharisiêu. Trong một bài báo trên Catholic Exchange, cha William Saunders đã giải thích về dụng ý của Chúa Giêsu:

Chúa Giêsu khiển trách họ vì đã không làm gương tốt, vì đã chất gánh nặng lên người khác bằng vô số quy định và luật lệ, vì ngạo mạn với cương vị của mình, và vì leo thang công danh, tìm kiếm sự trọng vọng và ăn mặc phô trương. Về căn bản, các kinh sư và người Pharisiêu đã quên mất rằng họ được kêu gọi phục vụ Thiên Chúa và những người được giao phó cho họ chăm lo.

Trong bối cảnh đó, Chúa Giêsu nói rằng đừng gọi ai trên đời này là “Rabbi,” là “cha” hay “thầy” với nghĩa là đừng để bất kỳ ai tự nhận cho mình thẩm quyền vốn của Thiên Chúa và quên mất những trách nhiệm khi nhận lấy cương vị của mình.

Chúa Giêsu đã nói ngoa dụ để cho các kinh sư và Pharisiêu thấy họ tội lỗi và kiêu ngạo đến thế nào khi không thấy Thiên Chúa là cội nguồn của mọi thẩm quyền, và thay vào đó lại nhận lấy cho mình những thẩm quyền tối cao, nhận mình là cha, là thầy của người khác.

Hiểu như thế sẽ hợp lý khi chúng ta thấy nhiều lần Chúa Giêsu dùng từ “cha” cho một số người chẳng hạn như “Tổ phụ Abraham” hay người cha của đứa con hoang đàng. Phải hiểu bối cảnh khi diễn giải những đoạn Kinh thánh khó.


Nhìn nhận như thế, nhưng chúng ta vẫn thắc mắc vì sao người Công giáo gọi linh mục là “cha”? 

Các linh mục luôn được người Công giáo xem là những người cha tinh thần. Thánh Phaolô đã nói rõ điều này trong thư gởi tín hữu Corinthô, “Không phải để bêu nhục anh em mà tôi đã viết thế! Nhưng là để sửa dạy anh em như những con cái chí thiết. Vả chăng, cho dẫu quản giáo, anh em có từng vạn trong Ðức Kitô Yêsu, nhưng cha, thì không nhiều đâu: vì trong Ðức Kitô Yêsu, nhờ Tin mừng, chính tôi đã sinh ra anh em” (1Cr 4, 14-15)

Ngay cả Đức Giáo hoàng trong tiếng La Tinh cũng là “papa” nghĩa là cha. 

Từ này thể hiện vai trò làm cha tinh thần của các linh mục. Các cha nuôi dưỡng đức tin và chỉ bảo chúng ta như người cha chỉ bảo con cái. Đây là một trong những lý do mà Giáo hội vẫn muốn linh mục sống độc thân khiết tịnh, để các linh mục được tự do làm cha tinh thần cho đoàn chiên mà Chúa đã giao phó.
Chi tiết